Này người trẻ, bạn có biết Phật dạy như thế nào về tình yêu? Tôi đã may mắn tham dự một buổi pháp thoại của Thiền sư Nhất Hạnh về tình yêu: mối quan hệ giữa yêu thương và hiểu biết, tình yêu từ bi hỉ xả, tình yêu và tình dục. Ông gọi đó là “yêu thương theo phương pháp Phật dạy”.
Trước khi bắt đầu bài thuyết pháp của mình tại Tổ Đình Trung Hậu - Vĩnh Phúc, Thiền sư Nhất Hạnh đã mời các bạn trẻ ngồi lên trên, để có thể nghe thật rõ. Ông muốn nói về tình yêu, bản chất tình yêu nhìn từ góc độ Phật giáo.
Miệng mỉm cười, ông đã kể một câu chuyện tình yêu, giản dị thôi nhưng hàm ý sâu sắc: Có một chàng trai ở vùng California - Mỹ, rất đẹp trai, học giỏi, tốt nghiệp một trường đại học nổi tiếng, có nhiều bạn gái xinh đẹp. Chàng trai sống với mẹ, người mẹ biết trong các cô gái ngưỡng mộ con mình, có một cô gái không xinh nhất, cô không trắng, không cao lắm nhưng được chàng trai đặc biệt chú ý. Ngạc nhiên, người mẹ hỏi con trai: Vì sao con lại thích cô gái ấy, cô ta đâu có gì nổi bật? Cô ấy hiểu con - chàng trai trả lời đơn giản.
Chàng trai học ngành công nghệ thông tin nhưng rất hay làm thơ. Mỗi lần chàng đọc thơ, cô gái nọ lắng nghe rất chăm chú và có những nhận xét sâu sắc, trong khi những cô gái xinh đẹp kia không để ý gì đến. Chàng trai đã chọn người yêu không vì vẻ đẹp bề ngoài, mà bởi sự lắng nghe và thấu hiểu.
"Đạo Phật cũng dạy như vậy, có hiểu mới có thương, tình yêu phải làm bằng sự hiểu biết", Thiền sư kết luận.
Muốn thương phải hiểu
Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ.
Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc.
Không hiểu, không thể thương yêu đích thực.
Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu.
Mỗi người có những nỗi niềm, khổ đau, bức xúc riêng. Nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt, khổ đau. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời.
Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thường xảy ra.
Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ "đói" thương, "đói" hiểu. Họ thơ thẩn, lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó.
Vậy nên, "có hiểu mới có thương" là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình.
Chọn người hiểu và thương mình - hãy nhớ - đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời.
Bốn yếu tố của tình yêu: Từ bi hỉ xả
Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả.
"Từ" là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày.
"Bi" là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.
Như vậy, "từ bi" theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. "Từ bi" trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải "tu tập". Cần nhiều thời gian để quan sát, lắng nghe, thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.
"Hỉ" là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.
"Xả" là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/anh, em/anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc.
Này người trẻ, bạn nghĩ về tình yêu của mình đi, có "từ bi hỉ xả không"? Bạn hãy can đảm tự hỏi mình rằng: "Người yêu ta có hiểu niềm vui nỗi khổ của ta không? Có quan tâm đến an vui hàng ngày của ta không? Người ấy có nâng đỡ ta trên con đường sự nghiệp không?..." Và tự hỏi lại mình, liệu bạn có đang thành thực với tình yêu của mình?! Liệu tình yêu của bạn đã đủ "từ bi hỉ xả"?
Tình dục và tình yêu
Phật giáo quan niệm như thế nào về tình dục trong tình yêu? Không phải ngẫu nhiên mà vị thiền sư tôi được hạnh ngộ bắt đầu vấn đề này bằng cách bàn về "thân tâm" trong truyền thống văn hoá Á Đông.
Trong truyền thống văn hoá ta, thân với tâm là "nhất như", tức là nếu ta không tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu nhau là giữ gìn cho nhau, kính trọng nhau. Khi sự rẻ rúng xem thường xảy ra thì tình yêu đích thực không còn.
Thân thể ta cũng như tâm hồn ta. Có những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn, chúng ta chỉ chia sẻ với người tri kỉ. Thân thể ta cũng vậy, có những vùng thiêng liêng và riêng tư, ta không muốn ai chạm tới, ngoài người ta yêu, ta tin, ta muốn sống trọn đời, trọn kiếp.
Trong tình yêu lớn và cao quý, bất cứ lời nói và cử chỉ nào cũng phải biểu lộ sự tương kính. Người con trai phải tôn trọng người con gái mình yêu, cả thân thể lẫn tâm hồn. Người con gái biết giữ gìn, cũng là biết làm người yêu thêm tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau.
Bạn muốn thương yêu theo phương pháp Phật dạy chăng? Hãy hiểu, thương và tương kính người yêu của mình, cũng chính là đem hạnh phúc đến cho người và cho mình vậy!
Trong đạo Bụt, nghiệp gồm có: ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp. Khi ta có một tư duy, một ý nghĩ, một tư tưởng đầy tha thứ bao dung thì gọi là thiện ý nghiệp. Lúc ấy ta đang tạo một cái nghiệp về lòng từ bi. Chỉ riêng ý nghiệp lành thôi cũng đã đủ mạnh rồi, chưa cần nói lời ái ngữ, hành động dễ thương thì mình đã đang tự chữa lành cho mình, cho gia đình, cho đất nước và cho thế giới.
Nghiệp có nghiệp chung và nghiệp riêng. Ví dụ chúng ta cùng đến Làng Mai tu tập với nhau là nghiệp chung, vì chúng ta có ước muốn giống nhau là muốn được tu tập và chuyển hóa. Cái nghiệp chung được làm bằng những nghiệp riêng, và cái nghiệp riêng tạo thành nghiệp chung. Nghiệp chung và nghiệp riêng tương tức với nhau. Bụt xác định ta có tự do ý chí, có khả năng chuyển nghiệp. Năng lượng chánh niệm có thể giúp mình chuyển nghiệp. Ban đầu, chúng ta có cảm tưởng ta là một nạn nhân của cái màng lưới nghiệp. Nhưng nếu biết sử dụng chánh niệm, chánh định và chánh kiến thì ta có thể bắt đầu thay đổi. Cần biết là có thể có thêm yếu tố tình cờ, nhưng không nhiều. Hành động trên cái “ một ” có tác động trên cái “ tất cả ” và cái “ tất cả ” có tác động trên cái “ một ”. Ví dụ, khi mỉm được một nụ cười thì mình khoẻ mà thế giới cũng nhờ đó mà được khoẻ. Mình có chánh niệm và chánh kiến thì hành động mới đưa tới giảm thiểu khổ đau và kiến tạo an lạc.
Bụt ân cần dạy dỗ mình phải ráng tập chánh tư duy, nhưng ta chỉ có thể tư duy đầy từ bi khi mình thấy mình trong người đó. Nếu chỉ thấy người đó là một người khó chịu, dữ dằn thì sao mà mình từ bi được? Thành ra phải thấy mình với người đó là một, mình có ở trong người đó, “tam luân không tịch”. Mình với người đó không khác. Giống như tay trái với tay phải, mình là một thực thể với người đó. Khi thấy được như vậy thì mình mới tha thứ, mình mới nghĩ đầy từ bi, đầy thương yêu đối với người đó được. Còn nếu thấy người ta dữ như quỷ, còn mình thì đẹp đẽ như thánh thần, thì chẳng thể nào mà thương được. Cái nhìn nhị nguyên đó không phải là cách nhìn của một người học đạo Bụt, không phải là cách nhìn của một người hành theo con đường Bụt dạy. Phải đi về hướng hiểu và thương, đó là hướng đi của một người tỉnh thức. Điều này không ai ép mình được, nếu bị ép thì không thể thành công. Mình phải thấy được mình là người đó với những khó khăn với những khổ đau. Thấy được thì thương liền, không cần phải cố gắng gì hết.
Điều này không khó, quý vị hãy thử làm đi. Nghĩ tới những người không dễ thương nhất trong cuộc đời mình, và cứ thương. Hãy tập thấy mình với người đó là một, tập nhìn người đó với những khó khăn của người đó; với những khổ đau, dằn vặt của người đó, lúc ấy tình thương sẽ tới một cách rất tự nhiên. Nhờ có tình thương nên những tư duy, hành động, nói năng của mình sẽ rất tự nhiên đi về hướng từ bi mà không cần phải cố gắng và mình không còn buồn bã, u sầu, héo hắt nữa vì mình là người hiến tặng thương cho sự sống.
Hãy tư duy về sự tương tức, sở dĩ người đó như vậy nên mình mới như vậy, người đó hành xử như thế này nên mình mới vụng về như thế kia. Có được tư duy tương tức, tương nhập ấy thì mình mới có thể chấm dứt giận hờn, mở lòng ra tha thứ được; mới nói lời ái ngữ được. Lúc này những lời nói thân ái của mình được thốt ra một cách rất tự nhiên mà không gượng ép, không dối lòng. Như vậy là mình đang tạo dựng những nghiệp lành. Khi nói tới nghiệp người Việt mình thường cho rằng đó là những quả báo xấu. Nhưng không phải như vậy. Nghiệp là những thói quen, mà thói quen thì có thói quen tốt và thói quen xấu. Khi nghĩ những điều lành (cảm thông, thương yêu, tha thứ…) tức là mình đang tạo ra ý nghiệp lành. Khi mình nói những lời dễ thương, đem lại sự tự tin, an vui và hy vọng cho người khác tức là mình đang tạo khẩu nghiệp lành. Khi mình làm những việc tốt, mang lợi lạc tới cho những người xung quanh tức là mình đang tạo thân nghiệp lành. Nếu chỉ chế tác toàn ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp đi về hướng thiện thì nghiệp báo của mình rất đẹp. Nhờ những nghiệp lành đó nên mình được sinh ra trong cõi bình an, được gặp và thân cận với những bậc thiện tri thức. Còn nếu mình suy nghĩ điều ác; nói lời thô tục, dữ dằn; làm những việc gây khổ đau cho người khác thì mình sẽ phải hứng chịu quả báo xấu. Mỗi lời nói, mỗi hành động, mỗi tư duy một khi đã phát khởi thì lập tức tác thành quả báo dù rằng mình không nói ra, dù rằng không ai biết nhưng mình lãnh nhận quả báo rất đương nhiên. Quả báo lành hay quả báo dữ tùy theo nhân lành hay nhân dữ mà mình đã gieo trồng.
Nếu lắng nghe và hành theo lời Bụt dạy thì ta sẽ kiến tạo được những quả báo đẹp đẽ. Hồi nhỏ, khi học về y báo và chánh báo tôi hiểu rất mù mờ, chỉ hiểu trên bề mặt danh từ. Nhưng càng thiền quán tôi lại càng thấy rõ ràng rằng tư duy, lời nói, hành động của mình có hai phần rõ rệt, đó là y báo và chánh báo:
- Chánh báo là bản thân mình, tức là dáng người, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, các bộ phận cơ thể, khối óc, tư duy, trình độ học vấn ...
- Y báo: là môi trường xung quanh như mình sinh ra trong gia đình đó, xã hội đó, đất nước đó, địa cầu đó…
Chiếc lá xanh vừa mới sinh ra trên cành cây vào mùa xuân là một biểu hiện mới của cái lá, đó là chánh báo của cái lá. Còn những thứ xung quanh như cái cây, nước, đất, không khí, mưa… là y báo của chiếc lá. Bạn cũng vậy, bạn có thân thể này, mang cái tên này nhưng đó chỉ là tên tạm thôi, đừng tưởng đó là tên thật. Với những điều kiện đó thì mình mang cái tên đó, nhưng phải biết rằng trong cái tên này có cả ba mẹ, ông bà, tổ tiên chứ không phải cái tên nằm riêng độc lập đâu. Cho nên mình là chánh báo của mình mà cũng chính là y báo của mình. Đừng có nói rằng “Tôi là cái thân thể này, mẹ tôi sinh ra tôi làm chi, để tôi phải khổ, ghét quá” hay là “Sao tôi không sinh ra trong gia đình tử tế hơn, mà lại sinh ra trong gia đình này, ai cũng dữ dằn, làm khổ nhau”… Đó là tại vì mình cũng dữ dằn, mình cũng hành xử không dễ thương nên kết quả mới sinh vào gia đình không dễ thương. Thành ra mình chính là môi trường của mình. Đó là một sự thật không thể chối cãi được. Điều này mình phải xác thực bằng chính mình, phải quan sát và nghĩ xem có đúng hay không.
Nhà xuất bản Parallax ở Mỹ đã phát hành một cuốn sách của tôi với tựa đề “The World We Have” (Thế giới mà chúng ta đang có). Chúng ta chỉ có một thế giới này để sống thôi. Tựa đề của cuốn sách được nhà xuất bản lựa chọn. Có người nói rằng nên để “The World We Are” tức là “Thế giới mà chúng ta là” thì đúng hơn. Vì khi nghĩ rằng “đang có” có nghĩa là mình riêng và thế giới riêng, còn “thế giới mà chúng ta là” có nghĩa là mình vừa là chánh báo, vừa là y báo. Vì vậy tôi muốn các bạn hãy để vài phút thiền quán thật sâu, không những mình gửi tình thương tới cho người làm khổ mình, để có những tư duy rất từ bi đối với người đó, mà còn viết thư cho người đó, điện thoại cho người đó. Trước hết nên nói chuyện với người đó trong tâm của mình, đối xử với thân và tâm mình cho đàng hoàng. Quý vị phải hứa với y báo của mình, tức là môi trường của mình rằng mình phải sống làm sao cho xứng đáng với môi trường mà mình đang sống. Quý vị phải nuôi dưỡng địa cầu, nuôi dưỡng môi trường sống. Từ hôm nay, khi mà quý vị đi, quý vị nhìn mọi sự vật như là mình, bụi tre đó là mình, không khí đó là mình, mây đó là mình, cây này là mình, và mình phải có trách nhiệm che chở, gìn giữ.
Ở Lộc Uyển, quý thầy, quý sư cô có thể làm ra điện từ năng lượng mặt trời để sử dụng, họ không cần điện của thành phố. Các thầy các sư cô lấy năng lượng mặt trời ở California để dùng điện thoại, máy tính, đèn điện trong các phòng, có khi còn dư điện để tặng lại thành phố nữa. Họ cũng có những ngày không sử dụng xe hơi để tránh làm ô nhiễm bầu khí quyển. Họ tìm được những loại xe hơi chạy bằng dầu cặn, tức là dầu thực vật sau khi chiên xào thải ra và đem đi lọc rồi dùng thay xăng. Mỗi tuần ở các tu viện của Làng Mai chúng tôi có một ngày không sử dụng xe hơi. Nhiều bạn thiền sinh tới đây tu tập cũng bắt chước chúng tôi, hứa rằng trong tuần cũng thực tập một ngày không sử dụng xe và họ cũng bắt đầu tập ăn chay 15 ngày trong tháng hoặc giảm 50% lượng thức ăn động vật trong mỗi bữa ăn. Họ làm như vậy chẳng phải là để được lòng của Bụt, tại vì phần lớn họ là người theo Thiên Chúa giáo, mà họ làm như vậy là có lợi cho chính họ.
Mình là chánh báo nhưng cũng là y báo. Mà y báo là quả địa cầu này nên ta chăm sóc cho quả địa cầu cũng chính là chăm sóc mình. Trong khi súc miệng, rửa mặt có nhiều người cứ để cho nước chảy tràn lan. Nhiều khi rửa một cái ly mà mình mở vòi nước quá mạnh. Rồi đang rửa lại bỏ đấy đi lấy cái ly khác để cho nước chảy ròng rất là uổng phí. Đừng nghĩ rằng nước rẻ, đừng nghĩ rằng mình trả tiền thì mình có quyền sử dụng thoải mái. Nước cũng là tài nguyên của địa cầu, phí phạm nước là phí phạm tài nguyên của địa cầu. Để có được những giọt nước trong lành ấy phải mất công sức của biết bao nhiêu người, bao nhiêu tài nguyên khác góp vào như: điện, xăng, dầu, gang, thép…
Chỉ cần nhận ra điều này rồi thực tập tiết kiệm lại mọi thứ: điện, nước, đồ ăn… là đã làm một hành động thương yêu đích thực rồi. Đi ra khỏi phòng phải tắt đèn, đó là thực tập yêu thương. Hãy mời Bụt biểu hiện trong mình bằng những hành động chánh niệm, tư duy chánh niệm, sử dụng chánh niệm. Đừng tìm Bụt ở ngoài, Bụt ở trong mình. Chánh niệm chính là Bụt. Bụt thì đi đứng rất đàng hoàng, ngồi rất đàng hoàng, hành xử rất đúng mực.
Cứ mùa hè đến, tại Làng Mai mỗi tuần có một ngàn người tới tu tập trong suốt bảy ngày. Trong bốn tuần lễ, bốn ngàn người đó không ăn thịt, cá, trứng, sữa. Thành ra trong một tháng có biết bao nhiêu con gà, con bò, con lợn được cứu sống. Không ăn trứng thì người ta sẽ hạn chế chăn nuôi mà hạn chế chăn nuôi thì sẽ giảm thiểu được các chất thải (phân của gia súc gia cầm), một nguyên nhân của hiện tượng hiệu ứng nhà kính, hâm nóng địa cầu.
Vì vậy trong một tuần, mình có năm ngày đi làm, một ngày cuối tuần đi mua sắm và ngày còn lại không sử dụng xe thì cũng không sao hết, mà đó là một hành động rất từ bi.
Chúng ta phải biết nghĩ tới các thế hệ con cháu của ta. Đừng để đến lúc con cháu ta không còn không khí để thở, không còn điện để dùng, không còn nước để uống. Như vậy là mình đã đoạn tuyệt sự sống của con cháu mình. Mà con cháu mình chính là mình đó. Thành ra sử dụng các nguồn tài nguyên một cách chánh niệm tức là mình che chở cho địa cầu.
Giáo Huấn Về Sự Tu Tập Của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Những câu hỏi này được ghi lại vào ngày 7 tháng 4, 2013 tại buổi pháp thoại thứ ba của Thiền sư TNH tại khóa tu dành cho Các Nhà Giáo tại Thái Lan, vào tháng 4, 2013. Trong bài pháp thoại này, Thiền sư đã trả lời các câu hỏi không chỉ xuất phát từ những vấn đề cá nhân mà cả những vấn đề trong phạm vi giáo dục. Những đề tài trao đổi bao gồm cả việc thực tập chánh niệm đối với người trẻ.
H (Hỏi): Thưa Thầy, khi chúng con cố gắng thực tập hạnh lắng nghe sâu lắng, thì đối tượng tiếp xúc lại dùng những lời lẽ hung bạo, nói những điều xấu ác để làm tổn thương người khác và bản thân họ, thì làm sao chúng con có thể duy trì hạnh lắng nghe sâu lắng.
TS (Thiền sư): Mục đích của việc lằng nghe với lòng từ bi là để giúp người khác bớt khổ đau. Khi người ta tràn đầy đau khổ thì họ khó sử dụng ái ngữ. Có lẽ những đớn đau, chua chát, bạo lực, thất vọng và sân hận trong lòng họ đã biểu hiện ra bằng những lời nói và hành động tai hại. Vì thế khi lắng nghe quý vị hãy nhớ một điều: người này đang đầy đau khổ. Tôi lắng nghe là để giúp người đó bớt khổ đau. Hành động chánh niệm này có hai khía cạnh: trước hết là nhận ra được sự khổ đau trong lòng người đối diện, kế tiếp là nhớ lại mục đích của hạnh lắng nghe của ta. Trong lúc lắng nghe, hãy chánh niệm về những điều này và sử dụng năng lượng của từ bi để bảo vệ mình khỏi bị ảnh hưởng bởi những lời nói độc hại. Nếu làm được như thế thì những lời nói đó không thể làm tổn thương quý vị lâu dài. Nếu quý vị không giữ được tâm từ bi, thì đừng cố gắng buộc mình phải tiếp tục lắng nghe kẻo quý vị thất niệm, và tâm quý vị sẽ không được bảo vệ nữa. Hãy đợi đến một lúc khác để thực hành hạnh lắng nghe, khi quý vị tràn đầy từ bi, thông cảm.
H: Thưa Thầy, chúng con có nhận một nhân viên vào phụ trách việc huấn nghệ. Nhưng anh ta thường dùng những lời lẽ xúc phạm đối với phụ nữ, hay những người khác sắc tộc. Chúng con không thể chịu đựng được những lời lẽ này. Chúng con muốn hỏi là, làm sao chúng con có thể bày tỏ với anh ta sự khó chịu của mình về cách ứng xử của anh ta một cách thân thiện nhất?
TS: Thầy không nghĩ là quý vị cần phải chuyển đổi cách ăn nói của người đó. Nhưng quý vị cần chuyển đổi cách lắng nghe của mình. Nếu quý vị nhận ra được nỗi khổ đau của anh ta, và anh ta đã thể hiện điều đó ra ngoài như thế nào, thì quý vị có thể lắng nghe bất cứ điều gì anh ta nói mà không bị bực tức. Nếu quý vị có thể lắng nghe với tâm từ bi, người nói dần dần sẽ tự họ thay đổi cách nói năng, quý vị không cần phải bảo họ làm thế.
H: Thưa Thiền sư, chúng con làm việc với những người dân thuộc một bộ tộc trên núi. Họ phải giết thú, phá rừng, góp phần vào việc làm nóng trái đất –cách kiếm sống của các bậc phụ huynh này dựa trên việc sát hại mạng sống. Làm sao chúng con có thể dạy con cái họ cách bảo vệ sự sống?
TS: Nếu quý vị có thể nấu những bữa ăn chay cho họ, thì rất tốt. Dần dần hy vọng là họ có thể thay đổi thói quen ăn uống. Quý vị cần tìm những phương cách thiết thực để chỉ cho họ thấy sự khổ đau của các sinh vật, có thể một bộ phim tài liệu về cảnh thú vật bị làm thịt để ăn, họ sẽ cảm nhận được nỗi đau của những con thú mẹ. Điều đó còn giáo dục họ hơn là một bài pháp thoại hay những lời giáo huấn trừu tượng. Quý vị có thể gầy dựng một vườn rau, trồng rau xanh, rồi mời họ cùng tiếp tay với quý vị. Vườn rau không những có thể được duy trì, sản sinh thực phẩm, mà còn có thể được dùng để dạy cho con cái của họ những phương cách sống khác. Hãy chỉ cho bọn trẻ thấy là chúng có thể thể hiện tình thương yêu bằng cách ăn những thực phẩm hữu cơ, rằng chúng ta không cần phải ăn thịt. Người có lòng từ bi là người hạnh phúc. Vậy quý vị hãy làm như thế đi, rồi quý vị sẽ thành công.
H: Thưa Thầy, chúng con muốn áp dụng những phương pháp của Thầy vào trường học, nhưng thầy hiệu trưởng, hay giám hiệu không chấp nhận việc này. Chúng con phải làm thế nào để có thể áp dụng chúng mà không bị đuổi việc?
TS: Có nhiều cách để đem các phương cách này vào trường học. Cách tốt nhất là đem các bài học về chánh niệm vào lớp học một cách khéo léo, tinh tế. Nếu quý vị bảo các em học sinh bắt đầu buổi học bằng cách thở có chánh niệm, thì ai có thể ngăn cấm quý vị? Quý vị cần để cho người ta cảm nhận được những đổi thay trong lớp học. Nếu lớp học trở nên tốt hơn, các em học sinh tử tế hơn thì mọi người sẽ bắt đầu chú ý. Giả thử quý vị hướng dẫn một buổi thư giãn hoàn toàn; không kể đến thời gian dài hay ngắn, chắc chắn là nó sẽ gây ảnh hưởng trên lớp học. Quý vị cũng cần dành thời gian để tiếp xúc với thầy hiệu trưởng và các bạn đồng nghiệp để bàn về phương cách làm cho học sinh cảm thấy yên tâm hơn, và những việc cụ thể cần làm. Khi một thầy hay cô giáo thực hành chánh niệm thì mọi thứ về người đó đều thay đổi, người ngoài sẽ nhận thấy điều đó và sẽ hỏi vị thầy hay cô giáo đó về sự tự tại của họ. Khi người ta thấy được điều đó, họ sẽ không ngăn trở quý vị được an lạc. Nếu quý vị không biết được cảm giác an lạc của chánh niệm thì quý vị không thể đem nó vào lớp học. Một cách nữa là quý vị có thể viết về những lợi ích của việc thực hành chánh niệm và chia sẻ điều đó với các bạn đồng nghiệp hay cấp trên. Có rất nhiều kết quả có thể chứng minh rằng chánh niệm đã mang đến ích lợi cho môi trường giáo dục như thế nào.
H: Thưa Thầy, con đang đau khổ nhưng khi con đang cố gắng để thoát ra khỏi nguồn gốc của khổ đau của mình, thì học trò con tìm đến, muốn con giúp giải quyết những vấn đề của họ, rồi mẹ con lại gọi điện thoại báo là cha con muốn làm hại bà. Làm sao con có thể cùng lúc giải quyết khổ đau từ ba nguồn lực như thế?
TS: Quý vị cần lắng nghe những vấn đề của học trò và mẹ của mình, nhưng chỉ giải quyết trước một vấn đề! Nên rõ ràng là trước tiên quý vị cần nói với bà mẹ là mình sẽ trao đổi với bà, rồi quán xét vấn đề và gọi lại cho bà. Làm như thế là hợp lý. Để không bị choáng ngợp bởi quá nhiều vấn đề cùng một lúc, chúng ta cần biết vung dưỡng bản thân để có đủ sức mạnh mà giải quyết nhiều vấn đề.
Có hai việc: trước tiên, phải biết đối phó với khổ đau, và thứ đến là phải biết vung trồng hạnh phúc. Quý vị phải biết cách chữa lành vết thương và cũng cố bản thân. Ở đây Thầy xin nhắc lại thí dụ việc đi đến trường: đi như thế nào để có thể nuôi dưỡng bản thân. Làm những công việc thường ngày cũng vậy, làm như thế nào để chúng trở thành nguồn nuôi dưỡng ta. Khi cuộc sống hằng ngày nuôi dưỡng ta, ta sẽ có đủ sức mạnh và không bị choáng ngợp bởi nhiều vấn đề cùng lúc. Nếu một bác sĩ nhận thấy bệnh nhân của mình quá yếu, không thể chịu đựng phẫu thuật, ông sẽ dời việc phẫu thuật lại chờ cho bệnh nhân mạnh lên trước. Biết cách sống an lạc trong từng giây phút rất quan trọng trong việc giảm bớt khổ đau. Khi quý vị mở vòi nước, quý vị cảm thấy an lạc. Khi đánh răng, quý vị thấy hạnh phúc. Biết hàm ân và vui vẻ làm tất cả những việc đơn giản hằng ngày này rất quan trọng, chính chánh niệm sẽ giúp quý vị tỉnh thức trước những khổ đau và các giải pháp.
H: Thưa Thầy, khi con thực tập, con cũng cảm nhận được một vài chuyển hóa, nhưng chúng không bền lâu. Thí dụ, con có thể nhận thấy tâm sân của con khởi lên và để cho nó qua đi, nhưng con chỉ làm được đôi ba lần như thế, nên con cảm thấy rất nản lòng. Làm sao con có thể duy trì được kết quả của công trình tu tập của con?
TS: Nếu quý vị buộc mình phải thở, với ý nghĩ rằng điều đó là tốt, thì đó không phải là cách tu tập thông minh. Nhưng nếu quý vị bắt đầu thở theo một phương cách mà quý vị cảm thấy bình an, tự tại trong ba, bốn giây phút đầu tiên, thì đó là cách thực hành đúng. Đừng cố thực tập trong đau khổ. Đức Phật đã dạy rằng Pháp hoàn hảo ở khúc đầu, khúc giữa và khúc cuối. Quý vị cần phải cảm thấy an bình, hạnh phúc suốt quá trình thở vào, thở ra của mình, không chỉ ở khúc cuối. Vì thế hãy từ bỏ cách thực hành là phương tiện, và an lạc là kết quả của cách thực hành này. An lạc không phải là đích đến mà chỉ là con đường. Không có con đường nào đưa đến việc buông thư. Buông thư chính là con đường. Quý vị không thể buộc mình phải buông thư! Cách tu tập tốt là chúng ta không phải khổ trong quá trình tu tập! Nếu chúng ta khổ khi thiền hành, thì đó không phải là cách tu tập tốt! Nếu chúng ta tập thở theo tiếng chuông mà cảm thấy khổ, thì đó không phải là cách tu tập tốt. Hãy vui vẻ khi thực hành, thì quý vị không phải có câu hỏi này!
H: Thưa Thầy, phần đông chúng con sống trong những thành phố lớn, nên khi có dịp đến tu tập tại các chùa, thì chúng con lại thấy rất khó thực hành theo. Rồi khi trở về thành phố, thật khó giữ, khó nhớ những điều đã học được.
TS: Làm người xuất gia dễ tu tập hơn người cư sĩ. Khi quý vị sống trong tăng đoàn, quý vị được sống trong một môi trường lý tưởng. Vì thế việc duy trì, giữ gìn giới pháp dễ hơn khi ta sống trong tăng đoàn với các bạn đồng tu. Đức Phật luôn đi cùng với rất nhiều vị tỳ kheo vì Ngài hiều rất rõ thực tại đó. Chúng tôi chỉ theo gương Đức Phật bằng cách mời theo nhiều vị tu sĩ và cư sĩ có nhiều kinh nghiệm tu tập. Nếu quý vị muốn tu dễ, hãy trở thành một tu sĩ!
Nếu không, quý vị phải thành lập các đạo tràng cư sĩ dầu quý vị ở nơi đâu. Ở thành phố, một đạo tràng cư sĩ sẽ thay thế tăng đoàn của các tu viện. Đó là lý do tại sao những khóa tu như thế này có thể khơi nguồn cảm hứng để người cư sĩ có thể duy trì việc tu tập bằng cách thành lập hay tìm ra các đạo tràng. Thông thường vào ngày cuối khóa tu người ta mới tìm ra được, nhất là những người sống cùng một thành phố. Rất nhiều đạo tràng tu tập của cư sĩ đã được thành lập khắp nơi trên thế giới. Ở Đức có hơn 80 đạo tràng của cư sĩ tu theo pháp môn Tịnh độ. Ở Anh, có khoảng 100. Trong các thành phố như Luân Đôn và Nữu Ước, nhiều khi có đến 10. Vì thế khi quý vị trở về, hãy tìm hiểu, hãy họp thành nhóm để mỗi tuần tụ họp lại một lần đi kinh hành trong chánh niệm, ăn cơm chánh niệm và nghe pháp với nhau. Tôi luôn thực hành kinh hành ở các trạm xe lửa hay phi trường. Nếu đến các siêu thị, tôi cũng làm như thế! Khi quý vị thực tập như thế thì quý vị biết phải mua gì, phải không mua gì! Đôi khi tôi bước ra khỏi siêu thị mà không mua thứ gì! Đó là Phật giáo ứng dụng mà quý vị có thể đem vào thực tế.
H: Thưa Thầy, làm thế nào để con cháu có thể hàn gắn lại với những bậc cha mẹ hay ông bà, những người đã làm tổn thương, đã xâm phạm họ? Chúng con cũng muốn thương yêu các bậc trưởng bối, nhưng vết thương của chúng con quá sâm đậm.
TS: Khi cha mẹ của chúng ta đau khổ và họ không biết làm thế nào để giải tõa nỗi đau đó, họ sẽ chuyền nó qua cho chúng ta. Vì thế hãy quan sát nỗi đau của quý vị, quý vị sẽ thấy nỗi đau của cha mẹ trong đó. Nếu chúng ta không thể chuyển hóa nỗi đau đó, chúng ta cũng sẽ trao truyền nó lại cho con cái chúng ta. Đó là luân hồi khổ đau.
Thông thường chúng ta nghĩ là cha mẹ ở bên ngoài chúng ta, rằng họ là người khác. Điều đó không đúng; họ ở trong chúng ta, hoàn toàn có mặt trong từng tế bào trong cơ thể chúng ta. Những nỗi khổ và niềm vui của mỗi tế bào trong cơ thể chúng ta cũng là của cha mẹ chúng ta. Nếu quý vị không chuyển hóa được nỗi đau của cha mẹ bên trong chúng ta, thì chúng ta cũng sẽ khiến cho những người chúng ta thương yêu nhất khổ đau.
Quý vị đừng tìm cách thay đổi người cha hay mẹ ở bên ngoài quý vị mà không chuyển hóa người cha hay mẹ bên trong quý vị. Hãy nhớ rằng chúng ta là sự tiếp nối của cha mẹ chúng ta. Chúng ta sẽ mang họ vào tương lai. Vì thế mỗi khi quý vị bước đi, hãy mời gọi người cha, người mẹ bên trong quý vị cùng bước, để họ có thể tận hưởng những điều kỳ diệu của cuộc sống và có thể được chuyển hóa ở bên trong quý vị. Hãy uống trà cùng họ, để họ có thể được chuyển hóa ở bên trong quý vị. Hãy thay đổi người cha, người mẹ ở bên trong quý vị trước, điều đó dễ làm hơn, trước khi hướng tâm đến người cha, người mẹ ở bên ngoài. Chúng ta có thể chuyển các bậc cha mẹ ở bên trong thành những người dễ thương, vui vẻ, đồng cảm, và chấm dứt sự luân hồi của họ trong ta. Sau đó quý vị mới có thể đủ sức giúp người cha, người mẹ bên ngoài thay đổi. Nhưng phải đợi đến lúc đó, vì người cha sân hận trong ta khi phải đối mặt với người cha giận dữ bên ngoài sẽ chẳng đem lại lợi ích gì! Tôi cũng đã chứng kiến nhiều người con đã quay trở lại giúp đở cha mẹ mình. Nương tựa Tam Bảo, giữ năm giới là con đường hoàn hảo nhất để chữa lành các vết thương và chuyển hóa tốt hơn.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ từ Questions from the heart: Advice about practice from Thich Nhat Hanh, Nguồn: Buddhistdoor Magazine, April 2013
The Irish Times: My heart suddenly unbuttoned
-
PSN 18.04.2012 | Chuyển ngữ
Tony Bates - The Irish Times - Tuesday, April 10, 2012
Tôi đã tới, ít nhất là trái tim tôi đã cảm nhận tôi đã thực sự tới.
Với tình thương, chúng ta có thể đối diện với bất cứ tình huống nào nhưng nhiều người trong chúng ta chưa biết tình thương chân thật là gì vì thì câu mà chúng ta phải tự hỏi là làm sao để tình thương được phát sinh ?
Những câu này là những lời mở đầu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh hay của Thầy (chữ mà các đệ tử thân thương vẫn thường dùng để gọi Người. "Thầy" theo người Việt là thầy dạy học, thầy dạy tu) khi Thầy mở đầu bài giảng tại Thượng Viện Quốc Hội Anh tuần rồi. Không khí khá hăm hở sinh động trong phòng giảng bỗng nhiên im bặt khi chúng tôi đứng dậy chào Thiền sư.
Thich Nhat Hanh cho pháp thoại tại đại sảnh Royal Festival, Southbank, Luân Đôn
Sau khi những lời giới thiệu khá cảm động của Lord Richard Laird, Thầy vẫn ngồi thật yên mấy phút và nét mặt không biểu hiện cảm xúc nào. Tôi chợt lo lắng e Thầy không thích tới đây. Nhưng sau đó tôi đã nhận ra là Thầy cần thời gian để trở về với chính mình và để bắt mạch cái thính chúng khá đặc biệt nầy.
Với tình thương, chúng ta có thể đối diện với bất cứ tình huống nào nhưng nhiều người trong chúng ta chưa biết tình thương chân thật là gì thì câu mà chúng ta phải tự hỏi là làm sao để tình thương được phát sinh ? Thầy tiếp tục : Nuôi dưỡng tình thương cho chính ta bắt đầu bằng hơi thở : ”Khi ta chú tâm và hít vào hơi thở vào, có một phép lạ đang xảy ra. Ta chợt nhớ là ta đang có cái thân đây và ta quán sát thấy cái thân thể này khá căng thẳng. Ta chú ý điều đó khi thở vào và ta buông thư các căng thẳng trên thân khi thở ra.”
Những lời của Thầy như đi thẳng vào tâm cang ruột rà của tôi, những cơ bắp thật sâu trong tôi bỗng mở ra. Thường thì lộ trình đi từ cái đầu tôi đến trái tim tôi nó khá dài và khá quanh co. Tôi dùng quá nhiều trí năng nên sự phán xét chỉ nằm bên trên sự việc. Nhưng hôm nay những lời Thầy đã đi thẳng vào trái tim tôi. Trái tim tôi chợt bất ngờ bật mở ra. Tôi đã về, hay ít nhất trái tim chợt thấy mình đã thật sự về.
Khi ta thở vào trong chánh niệm, nhiều cơ hội mới có thể xảy ra. Chúng ta chợt khám phá rằng ta phải rất tri ân những mầu nhiệm của sự sống đang nằm trong tầm tay ta. Đồng thời ta cũng tiếp xúc được với niềm đau trong ta và ta ngưng được sự trốn chạy niềm đau đó. Với chánh niệm ta có thể giữ được khoảng cách cần thiết để có thể ôm ấp niềm đau kia, lắng nghe thật sâu những gốc rễ của nó, chăm sóc nó. Và từ từ hiểu được niềm đau nầy. Lòng từ bi chợt ứa ra khi ta bắt đầu hiểu sâu hơn và với tâm từ bi kia ta có thể chuyển hóa được niềm đau ấy.
Và Thầy lại nói tiếp nhiều điều mà tôi đã nghe rồi trước đó nhưng sao lần nầy nó lại thật mới đối vi tôi, giống như tôi chỉ mới nghe lần đầu. Tôi đã thành người mới rồi. Những lời thầy đã rơi vào một con người mới, con người mà những vết hương cũ đã lành và những cơ hội mới đang mở ra.
Hơn 3.000 người tụ tập ngồi cho hòa bình với
Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại quảng trường Trafalgar Luân Đôn.
Nói về chánh niệm, viết về chánh niệm thầt dễ nhưng bạn chỉ thấy được sự sức mạnh của nó khi bạn đứng trước một người như Thầy. Một người mà đã thực sống nếp sống chánh niệm trong những thăng trầm lớn lao như vũ bão nhưng vẫn giữ được sự bình an.
Tinh thần của ông thầy tu 86 tuổi mảnh khảnh mong manh này thật dũng mảnh. Sự hiện diện của cả con người Thầy mới khiến cho thông điệp của Thầy trở nên một sức mạnh lớn lao.
Tôi quyết định là bây giờ cho đến ngày tôi chết, tôi nhất định phải sống cho bằng được dù cho chỉ một giờ thôi nếp sống can đảm và liêm khiết như Người.
Một người trong thính chúng đã hỏi thầy là anh ta có thể làm được gì cho một người rất khổ đau mà đã nhất định đóng hết tất cả các phương cách tri liệu mà bạn bè muốn giúp anh ta. Ta nghe được niềm tuyệt vọng trong câu hỏi ấy và biết chắc là đây chính là một câu hỏi rất thật, không bác học.
Thầy đã trả lời rằng ta phải hết sức thận trọng, đừng mong đổi thay người kia gì hết. Cái mà người ấy rất cần, có thể chỉ là sự hiện diện và sự kiên nhẫn của ta. Một người mà đã đóng tất cả những cánh cửa trái tim với thế giới bên ngoài như thế có nghĩa là người kia đang rất đau và mất hết niềm tin nơi tất cả loài người. Nếu ta thương người ấy bằng cách có mặt thật sự, có mặt thật vững chãi cho người ấy mà hoàn toàn không đòi hỏi người ấy phải đổi thay, may ra người ấy kịp thời thấy được tình thương chân thật của ta và mới chịu mở cửa
Năm 2004, tôi được thăm tu viện Làng Mai của Thầy lần đầu và tôi được giao trách nhiệm lo về chuyển hóa rác trong chánh niệm, trộn lại phân hữu cơ và xếp lại giấy đã xài qua rồi, ép dẹp lại các thùng cạt tông để đem đi chuyển hóa. Tôi học được bài học là thật ra trên đời nầy không có gì là “tiêu cực xấu xa dơ dáy” thật sự. Cho dù đó là những kinh nghiệm mà mình xem là xấu hổ và muốn quăng nó đi nhưng chính nó đã giúp ta tỉnh dậy và trở nên một con người thật hơn xưa.
Hồi đó danh từ chánh niệm dường như là một từ ngữ lạ lùng, một khái niệm trừu tượng, nhưng ngày nay nó đã trở thành một danh từ sử dụng hằng ngày trong gia đình. Chỉ cách thực tập đơn giản đó đủ cho ta thấy cách hành sử của ta đã khác hơn, trước những niềm vui cũng như nỗi khổ mà ta gặp hằng ngày và đối với những người ta đang sống chung. Hy vọng rằng chuyến đi này của Thầy ở Ái Nhĩ Lan sẽ giới thiệu lại cho ta “những nhiệm mầu của sự sống” đang nằm trong tầm tay của ta ngay bây giờ và ở đây khi mà chúng ta chịu dừng lại, không chạy nữa và cho phép tim ta có thêm không gian để thở.
-
Tony Bates là Giám Đốc sáng lập Headstrong - Trung tâm lo cho sức khỏe tinh thần của người trẻ trong toàn quốc.